Thương về dĩ vãng  

Posted by Unknown

NGÔ PHAN LƯU
(TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên)
Ai dìa nhắn với “nẫu” nguồn
“Đèn chai” gửi xuống cá chuồn gửi lên
Đó là lời nhắn miệt biển chuyển đến miệt rừng cách đây hơn nửa thế kỷ. Câu ca dao đơn sơ ấy gói biết bao sinh động đã qua của quê hương Phú Yên vùng Nam Trung bộ.

Chúng ta thử chậm rãi xem xét câu ca dao ấy từ ngoài vào trong xem sao.
Trước hết, nó cộm lên tiếng “nẫu” đặc sắc. Đó là phương ngôn đặc sản của tỉnh Phú Yên.
“Nẫu” là kẻ khác, người khác, bao gồm tất cả người ta.
Chúng ta thử nghe thêm tiếng ấy một lần nữa trong văn học dân gian địa phương Phú Yên, để rõ hơn mức độ phong phú của nó:
“Tôi day qua học đấu quyền đi roi
Xàng qua “nẫu” xúm lại coi
Xàng lại tôi đạp “nẫu” lòi xương gu
Lệnh trên kêu án làm tù
Ở ba năm chẵn khóc mù con ngươi”
Lại xin mời nghe nữa tiếng “nẫu”:
“Anh là con nhà nho nhã
Hô bài hát bội thiên hạ “nẫu” khinh
Anh là quyền quí hiển vinh
Anh làm ra vậy tình hình làm sao?
Kẻ “nẫu” thương “nẫu” thưởng đôi hào
Kẻ mà không có xu nào “nẫu” cũng coi”

Nhớ lại lúc còn nhỏ, bạn bè các tỉnh khác cứ gọi tôi là “dân nẫu”, ở cái “xứ nẫu”, nghe thế tôi bực mình lắm. Tôi cố ý lảng tránh không dùng tiếng “nẫu” trong sinh hoạt thường ngày, nhưng tiềm thức đã ăn sâu tiếng “nẫu” nên miệng cứ tự động bật ra, vượt qua lý trí kiểm soát, do vậy tôi mắc cỡ lắm. Ấy là chuyện hồi nhỏ. Bây giờ đã lớn rồi, tôi lại thích người ta gọi mình là “dân nẫu”, sống “xứ nẫu”, nhưng chẳng ai gọi cho. Lại cũng buồn buồn chẳng kém.

Thế còn “đèn chai” là gì?
Xin thưa, chai là mủ cây chò, một loại cây lớn, có nhiều ở rừng núi Phú Yên. Cây chò có 3 loại:
Chò chỉ: Cây cao lớn, gỗ tốt, thịt có vân ngoằn ngoèo như sợi chỉ nhưng ít mủ.
Chò ô: Cao lớn, gỗ tốt, nhưng cũng ít mủ.
Chò chai: Cây to lớn, gỗ xấu, nhưng đặc biệt rất nhiều mủ. Thân, cành xù xì, nhiều lỗ bộng chứa mủ, rịn ra đọng khô bên ngoài, tạo thành khối cứng gọi là “chai.” Lá chò chai hình thuẫn, lớn bằng ba ngón tay ghép, có sóng dày, đặc biệt lá non lớn hơn lá già. Trái chò chai có 3 đến 4 cánh, do đó chúng có thể nương gió bay xa.
Mủ cây chò chai chia làm nhiều loại tuỳ theo chất lượng tốt xấu:
- Chai cứt gà: là chai xấu nhất, đó là mủ nhểu từng giọt đọng lại, nhỏ bằng đầu ngón tay, rồi khô đi, trông giống cứt gà. Dân đi chai nhặt về làm chất liệu tạo nên đèn chai.
- Chai móng: có 2 loại móng, móng tía màu nâu và móng trắng màu vàng. Cả hai loại đều tốt. Chai móng do gió bão làm rụng xuống, dùng làm đèn chai rất hảo hạng. Có cục chai móng to bằng đầu người. Loại này ít hơn chai cứt gà.
- Chai ong: là loại cực tốt nhưng rất ít. Mỗi khi có mủ chò chai rỉ ra ngoài còn ướt, có một loài ong gọi là ong chai bay đến hút mủ về xây tổ. Chai ong rất dẻo, trong veo, có thể nặn thành những ly tách thô sơ dùng đựng nước rất nghệ thuật.
Đối với cây chò chai, hẳn nhiên việc lấy mủ là chính, nên gỗ chò chai không dùng vì rỗng ruột, còn gọi là sầu ruột tức hư ruột.
Đi lượm chai là việc vất vả nhưng vui thú. Bà con thường đi từng đoàn dưới sự dẫn đạo của người bầu chai.
Cách làm “đèn chai” như sau:
- Giã nhỏ cục chai thành bột, sàng dần cho mịn, xong trộn thêm ít trấu vào.
- Đổ xuống đất thành đống. Đốt đống chai này cháy dẻo ra.
- Dùng đũa bếp và bàn lăn, vừa xúc lên từng lọn, lăn tròn thành hình trụ dài độ 2 tấc, lớn bằng cổ tay.
- Lăn xong, thả vào thau nước, lập tức đèn chai nguội và cứng.
Thế là hoàn thành một thỏi “đèn chai”, cứ 10 thỏi bó thành một chục, đem đi bán.
Khi thắp, phải lấy một cái nẹp bằng tre kẹp ngang thân đèn để làm tay cầm cho an toàn. Khi “đèn chai” cháy lửa ngọn, nếu chai chảy rớt vào người, chỗ ấy thối thịt, hư hoại rất khó lành. Cái nẹp kẹp bằng tre này còn có công dụng làm giá để gác lên miệng cái ống, làm chỗ thắp đèn cố định trong nhà.
Trước khi thắp, người ta quấn quanh đèn chai một lớp áo lá chuối hay lá nón để tránh cháy lan. Trong thời gian đèn cháy sáng, thỉnh thoảng dùng que sắt khều gạt vào chân ngọn lửa, để đèn cháy to và sáng hơn. Có thể dùng “đèn chai” gắn vào ống một cây sào dùng đi đêm.
Ở Phú Yên ngày trước, việc dùng “đèn chai” là chủ yếu. Từ vùng rừng núi, đồng bằng cho chí vùng biển, đâu đâu cũng dùng đèn chai. Thị trường dùng mạnh nhất là vùng biển. Nghề mành lưới, đánh bắt cá, tôm, mực… hoạt động ban đêm, nên dùng đèn chai rất tiện lợi và rẻ tiền.

Thế nên, câu ca dao: “Ai dìa nhắn với “nẫu” nguồn/ “Đèn chai” gửi xuống cá chuồn gửi lên” đã phản ánh sinh động sự giao lưu giữa rừng và biển về một thời đã qua của nhân dân Phú Yên mà nay đã lùi vào dĩ vãng.
Có ai gốc Phú Yên mà quên tiếng “nẫu” không?
Có ai gốc Phú Yên khi nhìn điện sáng mà thấy thấp thoáng xa xăm trong tâm thức có hình ảnh cây “đèn chai” đang cháy không?
Có ai gốc Phú Yên ăn cá chuồn mà thấy ẩn hiện cảnh người ta gồng gánh đi bộ vất vả đem cá chuồn đi đổi “đèn chai” không?
Chính những gian khổ đầy sáng tạo ấy đã bắt nguồn cho văn minh xán lạn hôm nay. Quá khứ tuy đã không còn nhưng chúng vẫn sống tận thềm hiện đại cho những ai biết nó.
Chỉ một câu ca dao đơn sơ mà dàn trải như một cuộn phim. Làm sống dậy những tâm tình, những sinh hoạt một thời của ông bà ta đã sống.

Những điều tôi viết ra đây, không phải là một bài nghiên cứu chuyên sâu, mà chỉ là một vài chất liệu để gợi đưa trí tưởng tượng cho quí bạn chưa biết việc này, có thể xuyên qua thời gian thấy được một thế hệ vất vả không than van mà còn đầy sáng tạo. Một thế hệ không bao giờ mất niềm vui cuộc sống đơn sơ thấm đẫm tình người.
Và, “Ai dìa nhắn với “nẫu” nguồn/ “Đèn chai” gửi xuống cá chuồn gửi lên” là thân thương như thế đấy.
Đợi khách - Ảnh PHẠM THỊ THU

0 comments

Post a Comment

Powered by Blogger.

Archives