Nón lá quê  

Posted by Unknown

Bến cá Long Hải buổi xế chợ - Tranh TRẦN VĂN HẢI

NGÔ VĂN TUẤN

Ngày xưa khi mẹ còn sống, cứ mỗi lần về thăm quê ở Quảng Nam vào, thế nào mẹ cũng mang về hàng chục chiếc nón lá để làm quà cho các dì, các cô cùng xóm. Nón lá Quảng Nam tuy không đẹp, không mảnh mai như nón Huế nhưng dùng bền, rất được phụ nữ nông thôn ưa chuộng. Nón lá xứ Quảng vốn chú trọng đến chất lượng, nên thường khi chằm nón xong người ta dùng nước dầu rái loại trong quét một lớp mỏng lên mặt nón để tạo độ bóng và bền. Dì, cô nào được tặng nón là vui lắm, đi đâu họ cũng đem khoe chiếc nón mới.
Chiếc nón lá từ lâu đã trở thành biểu tượng, nét duyên của người phụ nữ Việt Nam. Trong đời sống bình dị của người nông dân, chiếc nón lá luôn đồng hành cùng họ, ra đồng lên rẫy, xuống sông xuống bến, đi chơi hội hè, chợ sớm, chợ chiều, đám tiệc, cưới hỏi...
Nón lá giúp con người che mưa, đỡ nắng. Hình ảnh những chiếc nón trắng nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng ươm, hay dưới rặng tre làng người nông dân ngồi phe phẩy giữa trưa hè oi bức... là những hình ảnh đẹp, rất chân quê. Người nông dân yêu quý chiếc nón lá vô cùng . Đi làm đồng chỉ đội những chiếc nón cũ mèm, vành đã bung, gọi là nón cời. Nón mới để dành đi chợ, đi dự cưới hỏi... Ngày xưa, mẹ đội nón, khi đã quá “cời”, mẹ lấy kéo cắt bỏ một hai vành cho chiếc nón “trơn tru” rồi dùng tiếp chứ ít khi nào vứt bỏ. Có lần hai anh em thấy nón mẹ rách, vành đã bung, rủ nhau rút vành nón làm khung diều, mẹ phát hiện la cho anh em một trận tơi bời.
Chiếc nón lá, với các mẹ, các chị ít khi nào rời tay, dù trời mát rượi đi nữa, bước ra ngõ là nón kẹp theo tay. Lên xe đò cũng vậy, không bao giờ chịu rời chiếc nón, nhiều khi chủ xe phải nổi cáu.
Nón lá với người nông dân còn có nhiều tác dụng thiết thực khác: khi hút thuốc gặp trời gió, người nông dân dùng nón lá để che gió bật lửa, khi trời nóng dùng nón quạt cho mát, không có dụng cụ đựng nước lấy nón lá đựng, mệt, kê nón ngồi cho khỏi lấm, ngủ, lấy nón che mặt cho khỏi ruồi, ngay cả khi đi mua hàng lỡ quên túi, dùng nón để đựng những mặt hàng lặt vặt cũng tốt...
Với các cô gái, nón lá không chỉ giúp che mưa nắng, mà còn tôn vẻ đẹp, sự duyên dáng quyến rũ đằm thắm nên thơ. Với người xứ Huế, hình như cái gì họ cũng thích nhẹ, thích mong manh, với chiếc nón lá cũng vậy, nội cái tên thôi đã thấy nó mảnh mai, nhẹ nhàng rồi: “Nón bài thơ”. Ai một lần đến Huế mà không ngẩn ngơ trước tà áo tím, nón bài thơ và cái giọng Huế ngọt ngào không nơi mô lẫn được. Gọi nón bài thơ, bởi giữa hai lớp lá mỏng tang ấy khi chằm nón người thợ đã rất khéo léo ép vào đó bài thơ cắt bằng giấy mỏng, hoặc hình ảnh hoa văn, và khi ánh sáng tạt vào cái màu trắng của nón, thơ và hình ảnh sẽ hiện lên. Nón bài thơ ra đời tại làng Tây Hồ xứ Huế vào khoảng năm 1959-1960 do một nghệ nhân chằm nón nổi tiếng tên Bùi Quang Bặc sáng kiến làm ra.
Nón lá Việt Nam trong con mắt của giới nghệ sĩ mang vẻ đẹp thuần khiết đôn hậu, ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này, thấy nón lá, áo dài là thấy Việt Nam. Nón lá từ lâu đã làm say lòng nhiều văn nhân, nghệ sĩ, nhà thơ Tố Hữu phải thốt lên: “Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng - Nghiêng nghiêng vành nón dáng ai chờ”. Thi sĩ Quỳnh Dao, một nhà thơ tiền chiến Việt Nam thì: “Một hàng Tôn Nữ cười trong nón/ Sông mở lòng ra đón bóng yêu”.
Hình ảnh nón lá bây giờ vẫn còn nguyên giá trị ấy, có điều người đội nón lá, nhất là các cô gái trẻ, những người sống ở đô thành đã dần dần thưa thớt. Với các cô gái chuộng thời trang, nón lá không nằm trong sự chọn lựa của họ.
Nón lá bây giờ chủ yếu tồn tại ở các vùng nông thôn, với các mẹ, các chị. Tồn tại trong những buổi biểu diễn thời trang, thi hoa hậu, hoa khôi, một số điểm du lịch, chụp ảnh cho các sao để quảng bá. Có điều nghịch lý, người nước ngoài đến Việt Nam hầu như ai cũng thích nón lá. Đến các khu du lịch thấy người nước ngoài đội nón lá nhiều gấp mấy lần người Việt.
Với một hiện thực như vậy, không biết mai sau nón lá Việt Nam sẽ đi về đâu?! 

0 comments

Post a Comment

Powered by Blogger.

Archives