VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT NƯỚC NGOÀI  

Posted by Unknown

Machu Picchu - Trái tim của nền văn minh
cường thịnh nhất châu Mỹ

ERNESTO CHE GUEVARA
PHÚ XUÂN (Theo Casa de las Américas)
Một góc khu thị dân ở Machu Picchu
Nhân kỷ niệm 46 năm ngày nhà cách mạng vô sản quốc tế Che Guevara hy sinh (9-10-1967 – 9-10-2013), xin giới thiệu với bạn đọc bài tùy bút duy nhất trong sự nghiệp chính luận đồ sộ của ông, được đăng trong số ra đặc biệt của nhật báo Granma, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Cuba nhân đánh dấu 5 năm ngày cách mạng Cuba thành công (1-1-1959 – 1-1-1964).
Được viền quanh bởi một vùng núi non hùng vĩ với những vách đá hiểm trở kéo dài, ở độ cao 2.800 mét so với mực nước biển và 400 mét so với con sông cuộn sóng Urubamba - dòng sông đầy sức sống bao phủ vùng núi cả ba mặt, ở giữa là một thành phố cổ bằng đá được dựng lên và mang tên địa danh mà nó tọa lạc: Machu Picchu.
Đây có phải là cái tên gọi đầu tiên của vùng đất này không? Không, theo thổ ngữ Quechua thì “Machu Pikchu” có nghĩa là “Đỉnh núi già”. Nhưng dân địa phương bây giờ lại gọi khu vực hiểm trở bao quanh làng mạc của họ là “Huayna Pikchu - Đỉnh núi trẻ”, đó chính là sự mô tả thuần túy về thực trạng kiến tạo địa hình nơi đây. Vậy đâu là cái tên thật? Chúng ta thử mở một dấu ngoặc và cùng thâm nhập vào quá khứ xem.
Thế kỷ XVI là giai đoạn đáng buồn cho các sắc dân da đỏ ở châu Mỹ. Cuộc càn quét của người da trắng từ bên kia đại dương tới đang lan tràn khắp châu lục, khiến các đế chế bản xứ sụp đổ tan tành. Còn giữa vùng Nam Mỹ là cuộc tranh giành quyền lực đẫm máu giữa Atahualpa (1497-1533) và Huáscar (1503-1532), hai kẻ có tham vọng thừa kế ngai vàng vương quốc Inca của vua cha Huayna Cápac (1464-1525) vừa quá cố, càng thúc đẩy nhanh chóng thêm sự sụp đổ của cái vương quốc hùng mạnh nhất Nam bán cầu này.
Để dung hòa những thực lực nguy hiểm vây quanh mình, Francisco Pizarro - viên thủ phó khét tiếng của đạo quân viễn chinh Tây Ban Nha - đã đưa Manco Cápac II, một trong những người con của Huayna Cápac lên ngôi vua. Sự kiện này nhằm hai mục đích: trước mắt dân da đỏ là một vị thủ lĩnh được nối ngôi hợp pháp theo phong tục Inca truyền thống; đồng thời nằm dưới sự cai quản của người Tây Ban Nha. Nhưng vị vua “bù nhìn” này không phải là kẻ nhu mì dễ vâng lời như F. Pizarro vẫn tưởng. Vào một tối nọ, ông đã lặng lẽ “đào nhiệm” cùng với ấn kiếm và chiếc đĩa vàng lớn - biểu tượng của Mặt trời. Kể từ đó trở đi, cuộc khởi nghĩa chống ách thực dân của Manco Cápac II ngay tại kinh đô Cuzco của đế chế Inca đã làm người Tây Ban Nha lo lắng. Quân khởi nghĩa trong năm 1536 còn tấn công cả pháo đài Sacsayhuaman huyền thoại và thậm chí cả tổng hành dinh của F. Pizarro nữa.
Toàn cảnh Machu Picchu nhìn từ trên cao.
Nhưng Manco đệ nhị không thể thắng thế lực thực dân nhiều vũ khí được. Sau cuộc giao tranh lịch sử tại Ollantaytambo - thành phố pháo đài với những bức tường kiên cố dọc sông Urubamba, vị vua yêu nước quyết định rút vào chiến tranh du kích và đương nhiên gây trở ngại rất nhiều cho sự “cai quản mới” của người Tây Ban Nha. Các sứ giả do F. Pizarro cử tới thương lượng với người Inca đều bị chặt đầu và bêu lên cọc giáo. Người Inca quyết giữ bằng mọi giá quê hương mình. Ba người con trai của Manco Cápac II là Sayri Túpac, Titu Cusi và Túpac Amaru nối nghiệp cha kế tiếp nhau kháng chiến và hy sinh. Nhưng với cái chết của người con út lại là một “điềm gở”: báo hiệu sự cáo chung của đế chế Inca - một nền văn minh lừng lẫy trong toàn bộ lịch sử của nhân loại.
Francisco de Toledo - viên tướng bạo tàn của quân Tây Ban Nha - đã phục kích bắt được nhà vua cuối cùng Túpac Amaru, rồi ra lệnh hành quyết ông trên Quảng trường Vũ khí ở El Cuzco - “tên mới” của Ollantaytambo do quân thực dân đặt. Nhà thủ lĩnh kiên cường của người Inca sau một giai đoạn trị vì ngắn ngủi, cũng như sau thời gian bị giam cầm hà khắc trong giáo đường Vergine del Sole đã hy sinh anh dũng. Trước giờ bị hành quyết, ông đã hướng về đồng bào mình với những lời lẽ hùng hồn của một người đàn ông chân chính, minh oan cho những lỗi lầm trong quá khứ của mình khiến bị “mất nước”, đồng thời cho phép dùng tên tuổi của ông trở thành biểu tượng cho các cuộc đấu tranh giành độc lập ở châu Mỹ. Bậc kế nhiệm tiêu biểu trong cuộc đấu tranh này là José Gabriel Condorcanqui (người phiên dịch của quân khởi nghĩa trong giai đoạn từ năm 1780-1783), thường được gọi là Túpac Amaru đệ nhị...
Dòng Urubamba cuộn sóng kề chân hai đỉnh núi huyền hoặc
Như vậy là không còn sự đe dọa với quyền lực của những nhà cai trị mới nữa, và cũng chẳng có ai nghĩ tới việc đi tìm các địa danh khởi nghĩa lừng lẫy một thời cả. Vì vậy thành phố Vilcabamba, nơi vị vua Inca cuối cùng đã rời bỏ trước khi ông bị bắt, vẫn được tạo hóa “bảo quản” rất tốt. Bắt đầu một thời kỳ kéo dài đúng ba thế kỷ, khi sự yên tĩnh tuyệt đối bao trùm khắp nơi đây...
Xứ Peru khi ấy vẫn còn là một vùng đất hoang sơ, nhiều nơi thuộc lãnh thổ này vẫn chưa có chân người Âu tới “khai hóa”, cho đến khi nhà khoa học người Ý Antonio Raimondi (1826-1890) thâm nhập vào đó. Trong nửa cuối thế kỷ XIX ông đã dành trọn 20 năm của cuộc đời mình để thám hiểm mảnh đất này theo cả bốn hướng. Tuy không phải là một nhà khảo cổ chuyên nghiệp, nhưng sự thông thái của A. Raimondi cùng những năng lực khoa học của ông đã mang tới những “xung lượng” khổng lồ cho việc nghiên cứu quá khứ của người Inca. Nhiều thế hệ sinh viên Peru tiếp nối từng ngỡ ngàng về “trái tim” của Tổ quốc mình, được A. Raimondi uyên bác diễn đạt trong sáng tác bất hủ El Peru. Còn giới khoa học toàn cầu hầu như bao trùm mối lưu tâm bởi sự học hỏi về một dân tộc trong dĩ vãng, một thời được coi là cường thịnh nhất Mỹ châu.
Vào đầu thế kỷ XX, một nhà sử học người Mỹ, giáo sư Hiram Bingham (1875-1956) đã tới Peru lần theo dấu chân thuở trước của A. Raimondi, và ông luôn bị chinh phục bởi vẻ đẹp hùng vĩ cũng như nền văn hóa rực rỡ tại các địa danh mà người Inca từng cư ngụ. Nhằm thỏa mãn những kỳ vọng của một sử gia, ông quyết định đi tìm bằng được cái thành phố đã bị quên lãng - nơi đóng đại bản doanh của bốn vị vua Inca cuối cùng bất quy phục ngoại bang. Từ những tài liệu lưu trữ của nhà nhân chủng học cự phách người Bolivia Antonio de la Calancha (1584-1684), cũng như dựa trên nhiều tài liệu chỉ dẫn khác, H. Bingham biết được rằng người Inca có một thủ đô chính trị, được họ gọi là Vitcos. Và một địa danh “thần thánh” khác - nơi chưa có người da trắng nào tới được: đó là Vilcabamba, nơi ẩn náu cuối cùng của người Inca. Được trang bị bởi những kiến thức sơ đẳng ấy, H. Bingham lên đường đi tìm các “căn cứ địa” huyền thoại thuở trước của nền văn minh Inca.
Bất cứ ai biết được ít nhiều về địa hình vùng này, tức thời sẽ hiểu được công việc của giáo sư Bingham khó nhọc đến nhường nào. Tại những khu vực núi non lởm chởm đá tai mèo, bao quanh là các khu rừng rậm cận nhiệt đới ken dày không có lối đi, cắt ngang bởi những con sông hung dữ đầy sự rình rập... Hiram Bingham, kẻ thậm chí không biết đến ngôn ngữ cũng như tập tục của dân bản địa, lại “dám” lạc vào đấy với ba “con bài” rất mạnh: ý chí khám phá, trực giác nhạy bén và một mớ... dollars. Là một người vốn thận trọng và kiên nhẫn, ông sẵn sàng bỏ tiền ra mua mọi điều bí mật, cũng như những thông tin đáng giá ngàn vàng. Sau rốt H. Bingham lọt vào được sào huyệt của một nền văn minh đã biến mất trong một ngày của cái năm 1911 đáng ghi nhớ ấy, sau đúng một năm tự mày mò theo kinh nghiệm của một người da đỏ - kẻ đã bán những “viên đá chỉ đường” cho ông. Rồi H. Bingham, người da trắng đầu tiên và duy nhất không có ý định “chinh phục”, đã toại nguyện trước vùng đất đầy cảm xúc, bị rừng hoang che phủ tưởng chừng như vĩnh viễn với thời gian.
Nhưng hiện giờ ở đấy chẳng còn gì nữa cả, rừng rậm vẫn tiếp tục sự xâm lấn nguyên thủy. Tuy địa danh này được người ta nghiên cứu tỉ mỉ, cụ thể và lẽ đương nhiên - tất cả các di vật khảo cổ có thể mang đi được, để rồi bỏ lại nó với sự quên lãng. Công khai mà nói, H. Bingham không có lỗi, những người Bắc Mỹ nói chung cũng không có lỗi; một chính phủ khốn quẫn về kinh tế ở Lima - nơi đề xuất các cuộc thám hiểm triền miên nhằm thu “thuế khảo cổ”: một nguồn lợi tức lớn lao cho ngân sách nhà nước - cũng không có lỗi. Vậy ai là kẻ có lỗi về sự điêu tàn của Machu Picchu? Tuy chúng ta có thể tự chấp nhận với cái ý nghĩ phiến diện, rằng mọi người đều không có lỗi. Thế nhưng chúng ta có thể học hỏi để tự khâm phục về nền văn minh của cha ông mình tại đâu bây giờ? Câu trả lời thực hiển nhiên - xin thưa: trong các bảo tàng... Bắc Mỹ!
Với nhà sử học Hiram Bingham, thì Machu Picchu không phải chỉ là một di chỉ khảo cổ đơn thuần, mà đó còn là một tượng đài kỳ vĩ đã làm mãn nguyện những ước mơ cháy bỏng thời trẻ của ông; với những sử gia yêu nghề khác cũng vậy. Một con đường dài của chiến thắng và suy sụp đã tỏa ánh hào quang nơi đây, và cái thành phố bằng đá xám đen này đã làm đầy những giấc mơ trong nhiều đêm dài thao thức trước đấy của ông. Những kết quả thám hiểm cũng như nhận định khảo cổ của Bingham - được củng cố qua các kiến thức chuyên môn - rõ ràng là đã gây ảnh hưởng rất nhiều tới các nhà khoa học khác.
Theo ý kiến của H. Bingham, Machu Picchu là quần thể làng xã đầu tiên của dân tộc Quechua và là trung tâm quyền lực của đế chế Inca - trước khi họ kiến tạo thủ đô mới. Ông đi sâu học hỏi huyền thoại của người Inca và “giải mã” được ba cái cửa sổ thuộc một ngôi đền đã bị hủy hoại, nơi anh em Ayllus - những người anh hùng dân tộc huyền thoại trong lịch sử Inca - đã trèo ra; ông cũng phát hiện ra sự giống nhau giữa một cái tháp tròn ở Machu Picchu với ngôi đền thờ thần Mặt trời tại Cuzco; cũng như phân tích các bộ hài cốt - chủ yếu là phụ nữ - được tìm thấy tại nhiều nơi hoang phế trong vùng, y hệt với những bộ xương người trong giáo đường Vergine del Sole - nơi từng giam cầm đức vua Túpac Amaru. Cuối cùng, Bingham đã phân tích một cách rất thành tâm với tất cả mọi khả năng, để đi đến quyết định: thành phố mà ông vừa khám phá, cách đấy hơn ba thế kỷ từng được gọi là Vilcabamba, địa danh thần thánh từ các cuộc khởi nghĩa đối kháng huyền thoại, còn trước đó nữa là nơi ẩn náu của những binh lính thất trận thuộc tù trưởng Inca Pachacutec, rồi họ bị bộ lạc người Chincha tàn sát. Đống hài cốt của những chiến sĩ oanh liệt được gìn giữ và quy tụ thành Đài kỷ niệm cho đến khi đế chế Inca hồi sinh. Nhưng nhà mồ của các liệt sĩ vô danh này trong cả hai trường hợp cần phải tọa lạc tại Tambotoco - một địa điểm thánh thiện khác cũng thuộc vùng này, chứ không phải ở Pacaritampo (gần El Cuzco), theo như chỉ dẫn của các già làng người da đỏ với nhà sử học Pedro Sarmiento de Gamboa - một người bạn vong niên của viên quan cai trị Toledo kia.
Giới thám hiểm hiện đại tuy không hẳn đồng nhất với nhận định của nhà khảo cổ H. Bingham, nhưng họ cũng chẳng đi sâu thêm được vào những tình tiết thiết yếu liên quan đến ý nghĩa cuối cùng của cái tên địa danh Machu Picchu “khó lý giải” ấy.
Sau nhiều giờ hành trình bằng xe hỏa, một con tàu với đường ray bé xíu nom như thứ đồ chơi: lúc đầu chạy dọc theo một nhánh sông nhỏ, để tiếp tục sau đó dọc bờ Urubamba cuộn sóng. Sau khi xuyên qua những khu đất hoang phế gây xúc động ở Ollantaytambo, tàu đến một cây cầu bắc qua sông, rồi với 8 km đường núi ngoằn ngoèo treo trên độ cao 400 mét so với mặt sông, sẽ dẫn chúng ta tới một khách sạn giữa đống đổ nát hoang tàn. Tòa hotel này do quý ngài José Manuel Soto quản lý, một nhà thông thái tuyệt vời với những câu hỏi về người Inca; và cũng là người hát rất hay, khiến giọng ca du dương của ông thêm bay bổng, lôi cuốn sự quyến rũ đầy cảm tính, tăng thêm sự huyền hoặc của một thành phố đổ nát giữa vùng cận nhiệt đới hoang sơ.
Machu Picchu nhô lên trên đỉnh một ngọn đồi và trải dài với diện tích bao quanh chừng hai cây số vuông. Nhìn chung, địa danh huyền thoại này chia làm ba phần: nhà thờ, dinh thự và nhà dân.
Giữa phần văn hóa gây ấn tượng của Machu Picchu là ngôi giáo đường hoang phế khổng lồ, được dựng lên từ những tảng đá hoa cương cực lớn, tòa nhà thờ với ba ô cửa sổ huyền thoại từng được sử gia H. Bingham giải nghĩa. Vượt lên trên tất cả các tòa nhà khác và lôi cuốn du khách bởi chất lượng kiến trúc tuyệt hảo là Intihuatana - nơi thờ thần Mặt trời; hay “buộc - giữ” Mặt trời theo cách gọi của người Inca: với một cái gậy bằng đá cao đúng 62 cm, dựng theo ý niệm cơ bản của tập tục Inca. Và một cây gậy khác nhỏ hơn - vẫn còn lưu giữ được, sau khi người Tây Ban Nha cố sức hủy diệt chốn biểu tượng thiêng liêng này.
Khu dinh thự của giới quyền quý Inca thể hiện những giá trị nghệ thuật phong phú, như cái tháp mái tròn mà Bingham từng so sánh. Rồi hàng loạt vòi nước cùng hệ thống dẫn nước được “lắp đặt” giữa các khối đá bên trong các dinh thự, đã chinh phục được lòng ngưỡng mộ của giới kiến trúc về trình độ khắc dựng đá điêu luyện nơi đây.
Trong các khu nhà còn lại, mà người ta cho là “khu dân cư”, đúng là có sự khác biệt hơn. Bằng chứng là đá xây dựng ở đó không được đẽo gọt công phu như ở hai phần trên. Khu này cách biệt với “vùng hành lễ” bằng một quảng trường nhỏ và các bình địa, nơi người ta lắp đặt các trạm cấp nước chính, đã khô mục từ lâu bởi nạn thiếu nước - một bằng chứng nữa lý giải nguyên nhân người Inca từ bỏ chỗ này như là “đại bản doanh” kháng chiến của họ.
Machu Picchu đồng thời là thành phố của các bậc thang. Hầu như tất cả mọi kiến trúc đều được dựng trên những cao độ khác nhau và liên quan với nhau bằng những bậc thang bất tận làm từ đá tảng, chỗ thì phẳng phiu, chỗ lại lồi lõm - tùy theo tính chất của từng khu thuộc “trái tim của nền văn minh cường thịnh nhất châu Mỹ”. Nhưng tất cả các lối đi bằng bậc thang đó vẫn còn hầu như nguyên vẹn bất chấp sức tàn phá của thời tiết khắc nghiệt, cũng như toàn bộ thành phố - thủ đô này cũng vậy; duy nhất chỉ có các vì kèo bằng gỗ và mái lợp rơm là bị thiên nhiên hủy hoại mà thôi.
Nguồn thực phẩm cung cấp cho đế chế Inca có thể được thỏa mãn từ những giống cây thực vật được trồng trên các bậc thềm bằng đất - vẫn giữ nét nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Sự phòng thủ cho thủ đô xem ra rất thuận lợi, bởi hai cánh đông và tây là những sườn núi dựng đứng khó trèo, phía bắc là cái “cuống họng hẹp” với con đường độc đạo khó thâm nhập, còn phía nam dựa vào đỉnh Huayna Picchu rồi. Cái “đỉnh núi trẻ” này cao hơn hẳn 200 mét so với ngọn núi kề bên là một nơi rất khó leo lên được; đây là điều hoàn toàn không dễ thực hiện cho những du khách can đảm nhất, nếu như không có những con đường lát đá gập ghềnh của người Inca để lại từ thuở xưa, cho phép vài người leo lên được tới đỉnh để quan sát cả một vùng rộng lớn. Chỗ này thực ra giống như một “đài thiên văn” thì đúng hơn là những điều mô phỏng khác. Bên dưới là dòng sông cuồng nộ Urubamba hầu như bao bọc hai ngọn núi này, khiến các thế lực thù địch trong thực tế khó mà chinh phục được kinh đô Machu Picchu.
Như chúng ta đã nói ở trên, từng tồn tại nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh các ý nghĩa khảo cổ thuần túy của Machu Picchu, nhưng thực ra có quan trọng mấy đâu cái ý nghĩa ban đầu nhằm tạo dựng nên thành phố này, và tốt hơn cả là chúng ta cứ để cho các chuyên gia thỏa sức với những cuộc tranh luận của họ. Điều chắc chắn nhất và quan trọng nhất, là chính tại đây đã thể hiện một cách minh bạch về sự tồn tại của một nền văn minh da đỏ cường thịnh nhất Tân thế giới, không bị ô uế bởi gót giày quân xâm lược từ bên kia đại dương, cùng với một kho báu khổng lồ ngập tràn những kỷ niệm giữa các bức tường uy nghi, hoặc giữa phong cảnh kỳ vĩ bao bọc khắp xung quanh, tạo ra một bức tranh thích hợp mà bất cứ một kẻ hay mộng mơ nào cũng đều choáng ngợp, phảng phất từ những di chỉ hoang phế; hay những du khách Bắc Mỹ đầy chất thực dụng, những người đã từng “phân bổ” lại các đại diện của những bộ lạc suy vong ngay trên quê hương họ, bất ngờ mục kích chốn này, giữa những bức tường oai phong lẫm liệt khiến họ phải ngỡ ngàng - bất chấp những khoảng cách về đạo đức và quan điểm văn hóa “cố hữu” của họ về người da đỏ. Bởi vì nơi đây hiển hiện mạch lạc đến từng chi tiết của hơi hướng “bán - da đỏ” trong tâm tưởng bất cứ người Mỹ Latinh nào.
Và chúng ta hãy tự hài lòng - tạm thời cho tới bây giờ - để đặt ra cho địa danh này hai thứ ý nghĩa có thể được: về một người lính, theo đuổi cái điều, mà ngày nay người ta thường gọi là “kẻ hão huyền”. Còn ta có nghĩa vụ dang rộng cánh tay hướng tới tương lai, cùng với “âm hưởng bằng đá” bất hủ muôn đời tuyên đọc trước cả châu lục: “Những thành phố của người Mỹ da đỏ, hãy tự hào về quá khứ chinh phục hiển hách của mình”; còn với những người đơn giản chỉ “chạy trốn khỏi những tiếng ồn của nền văn minh”, lại là một đường hướng thật giá trị, ẩn hình trong cuốn sách dành cho du khách - được một người Anh viết ra với cả sự mỉa mai xót xa về đế chế Anh Cát Lợi vốn “bao la” của mình: “Tôi thật là diễm phúc khi tìm ra một chốn không có sự quảng cáo về Coca-cola”.
Phế tích còn lại của ngôi pháo đài Sacsayhuaman danh bất hư truyền

0 comments

Post a Comment

Powered by Blogger.

Archives