XUYÊN TẠC LỊCH SỬ LÀ MANG TỘI  

Posted by Unknown

NGUYỄN VĂN THỊNH

Rõ ràng là chủ mưu đầu hàng đã thành ý thức chủ đạo trong tim óc viên đại thần lá mặt lá trái này và các nhà sử học có đầy đủ tư liệu về tội ác của giặc Pháp trong gần một trăm năm đô hộ nước ta, chúng có để dân ta sống yên mà làm ăn no ấm?
Bốn tháng sau, ngày 21/10/1867 vua Tự Đức ra chỉ dụ: “Đến như Phan Thanh Giản thì thủy chung đều quanh quất, lời nói không theo được việc làm, đem học vấn danh vọng một đời trút sạch ra bể Đông, thật là táng tận lương tâm, quá đỗi phụ ơn. Mặc dù đã lấy cái chết tự phạt nhưng cũng chưa đủ đền bù cho trách nhiệm nên Trẫm đem giao cả cho Tôn nhân Phủ và đình thần xem xét công tội để bàn định việc xử trí”. Và bản án ngày 17/4/1868 của các triều thần nghị xử rằng: “ Viên Kinh lược sứ cũ là Phan Thanh Giản khi việc xảy ra rồi tự thấy nghĩa vụ không thể sống được đành tìm lấy một cái chết, còn thì ngoài ra chỉ thấy muối mặt với cái sống thừa, đợi dịp trở về lấy làm hân hạnh! Đối với trách nhiệm giữ gìn đất đai mà lại ươn hèn đến thế, sẽ phải phân biệt xử trị để răn khí tiết bề tôi và để nhân tâm có bề phấn chấn mới phải. Trước hết cách chức và truy thâu lại phẩm hàm và ghép vào tội xử trảm giam hậu”. Cùng năm đó vua Tự Đức bút phê “truy đoạt chức tước, phẩm hàm và đục bia Tiến sỹ, để lại muôn đời cái án trảm hậu” với Phan Thanh Giản!
Tuy nhiên bên sự đánh giá chính thống như thế vẫn có những thế lực bênh vực thậm chí còn bốc thơm đơm đặt đủ điều cho nên con người ông, việc làm của ông, cái chết của ông vẫn là đề tài cho hậu thế tranh cãi dài dài. Vậy những ý kiến trái chiều kia có tự bao giờ và xuất phát từ đâu? Thật ra khi người Pháp đem quân xâm chiếm Việt Nam thì lực lượng họ không phải là quá mạnh, chiến trường xa lại rải quân phân tán trên địa bàn rất rộng mà nội tình vương triều Paris cũng lắm chuyện rối ren. Thế nhưng bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó cực kỳ bê bối. Triều đình thì hủ bại. Dù khí thế yêu nước của dân chúng rất cao nhưng không có chỗ dựa và không hợp thành một liên minh chặt chẽ. Trong khi bộ máy chiến tranh của Pháp dày dặn kinh nghiệm đối phó, lợi dụng những yếu tố xã hội và con người ở các quốc gia xa xôi lạc hậu thì những người như Phan Thanh Giản là tác nhân thúc đẩy mau chóng quá trình mất nước, tất nhiên lọt vào tầm ngắm để đội quân viễn chinh ấy khai thác và điều khiển bằng đủ những mưu mô thâm trầm xảo quyệt. Cuộc chiến xâm lược xứ An Nam xa xôi không được triều đình Paris tập trung ủng hộ bởi quan ngại chông gai chưa chắc thắng nhưng lại sớm thu được thắng lợi trọn vẹn mà ít hao người tốn của. Đương nhiên những người như Phan được coi như có công đầu với đội quân viễn chinh xâm lược Pháp. Khi ông ta chưa chết, Bộ chỉ huy quân sự Pháp ở Sài Gòn đã cử thầy thuốc và cố đạo đến chăm cả phần xác lẫn phần hồn. Sau khi Phan trút hơi thở cuối cùng thì Phó thủy sư Đề đốc Thống soái Nam kỳ De Lagrandière lại chu đáo cho tàu kéo và một toán lính kèn và lính tiêu binh hộ tống thi hài ông về tận nơi an táng ở cố hương đúng theo nghi thức truyền thống nhà binh Pháp, đồng thời gửi thư chia buồn và hết lời khen: “Nơi triều đình Huế trừ một mình ngài thấy rõ đâu là ích nước lợi dân. Người Pháp quốc hằng bền một lòng tôn trọng quan lớn Phan Thanh Giản và gia đình của ngài. Bổn trấn hứa sẽ hết lòng bảo bọc cho con cháu ngài hoặc muốn ra mà giúp việc nhà nước hay là muốn tước lộc chi thì bổn trấn cũng vui lòng ban ơn theo như ý”. Và người Pháp đã làm đúng như lời hứa. Ngay cả khi hai con ông là Phan Liêm và Phan Tôn có cầm súng chống Pháp một thời gian nhưng thua trận và bị bắt, người Pháp cũng rộng lòng tha và giao cho triều đình An Nam trọng dụng. Tất nhiên lại cầm binh đi đánh những người Việt Nam“nổi loạn”! Tên tuổi ba cha con họ Phan đều được nhà nước thực dân – tất nhiên là cả chính quyền bản xứ lệ thuộc “bảo tiết tôn vinh” như những tấm gương lớn về lòng yêu nước thương nòi! Dù cho dân chúng bất bình nhưng chính sử triều Nguyễn bù nhìn chẳng dám nói đó là sự sỉ nhục đối với lịch sử nước nhà! Trải hàng trăm năm thân phận “thuộc quốc phiên bang” mấy ai được săm soi góc cạnh ngọn ngành? Sự ngộ nhận đã thành nếp nghĩ, chỉnh sửa lại không là điều dễ! Phải chăng đó là tàn dư của văn hóa thực dân?
Giáo sư Trần Văn Giàu – nhà trí thức cách mạng nổi tiếng ở Nam kỳ, nhà sử học bậc thầy của nhiều thế hệ và là nhân vật quan trọng tại Hội nghị sử học 1963 năm ấy, khi ở tuổi sắp tròn trăm, nghe được những điều rối rắm, ông cho đăng lại mấy bài nghiên cứu “Luận về những nguyên nhân mất nước về tay Pháp” và không khỏi phẫn nộ trước việc ai đó bốc thơm Phan, đã khuyên: “Đừng bươi ra làm chi nữa”!
Vậy thì ai đã phục chức cho Phan? Tự Đức chết năm 1883, sau đó 2 năm trải bốn triều vua liên tục bất ổn thay ngôi, năm 1885 dưới sự bảo trợ của người Pháp, vua Đồng Khánh lên ngôi. Đồng Khánh vốn sính Tây được coi như một “sản phẩm Pháp tại Việt Nam”. Thầy dòng Trương Vĩnh Ký – người đồng hương và là bạn vong niên với Phan Thanh Giản, lúc này đã lọt được vào triều đình Huế giữ chức Đại thần Cơ mật viện gửi thư cho một linh mục báo rằng: “Trong cái nhìn đặc biệt về lợi ích của nước Pháp, việc Đồng Khánh lên ngôi quả là may mắn”! Đúng thế! Đồng Khánh là ông vua đầu tiên công nhận nền bảo hộ của nhà nước Đại Pháp. Để được lòng “nước mẹ”, tân vương ra sắc chỉ khôi phục hàm cũ là Hiệp tá Đại học sỹ cho Phan Thanh Giản sau những lời khen: “Phẩm vọng ngươi cao như núi Thái Sơn, văn chương ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao nhất một đời”. Tất nhiên bia được dựng lại sau hai thập niên bị đạp đổ! Đồng Khánh chỉ làm vua được ba năm thì chết. Qua hai triều vua Thành Thái và Duy Tân người Pháp không “dụ” được. Năm 1916, sau cuộc khởi nghĩa của Hội “Việt Nam Quang Phục” ở năm tỉnh Trung kỳ (Nam, Ngãi, Huế, Trị, Bình) thất bại, bốn nhà chí sỹ là Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị xử chém, vua Duy Tân bị đi đày biệt xứ, chính quyền bảo hộ đưa Khải Định là con vua Đồng Khánh lên ngôi. Năm 1924 Khải Định sắc cho quan dân tỉnh Thủ Dầu Một thờ phụng Phan công như “thần hộ quốc an dân”, ý để thưởng công đã giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp! Kế đến năm 1933, vua Bảo Đại cũng sắc cho quan dân tỉnh Vĩnh Long thờ phụng Phan công nội dung như thế, ý để thưởng công đã giao nốt ba tỉnh miền Tây cho Pháp! Việc làm ấy có nghĩa là triều Nguyễn hài lòng đã hoàn tất sứ mạng lịch sử chí ít cũng là giao toàn bộ xứ Nam kỳ vào tay người Pháp! Vậy thì thực chất việc phục chức và tôn vinh Phan Thanh Giản chính là ý đồ của chủ nghĩa thực dân. Điều cần lưu ý bạn đọc là danh thần Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tôn – là một trong số hiếm hoi mấy vị vua anh minh nhất trong lịch sử ngàn năm phong kiến Việt Namchủ vai chiêu tuyết. Còn như những triều vua chiêu tuyết và khôi phục chức sắc cho Phan đã bị chính Hội nghị sử học năm 2008 loại ra ngoài vòng lịch sử thì mọi việc chiêu tuyết cho Phan Thanh Giản vào mọi thời điểm đương nhiên chẳng có giá trị gì.
Thực ra càng xem xét kỹ tư liệu lịch sử càng nhận ra con người này rất phức tạp và có nhiều khuất tất.
Ông ta là người chưa đánh đã chủ hòa. Dù biết rõ âm mưu của giặc được đằng chân sẽ lấn lên đằng đầu mà ở cương vị lãnh đạo tối cao ông liên tiếp đi từ thỏa hiệp này tới thỏa hiệp khác thì việc đầu hàng là hậu quả tất nhiên thôi. Xin tóm lược vài tư liệu lưu trong thư khố Pháp cho thấy mối quan hệ bất chính giữa viên thủ lĩnh quân đội triều đình Huế này với các tướng lĩnh quân viễn chinh xâm lược Pháp xảo trá thâm sâu tới mức độ nào: Thư gửi cho Hải quân Trung tướng Bonard, Phan Khâm sai viết: “Trương Định đã đóng quân “vi pháp”(!) trên đất Tân Hòa (Gò Công), tự đặt vào vị thế chống lại chính phủ An Nam. Y đã tự xưng là “Tổng tư lệnh nghĩa quân dũng cảm”. Ngày 18 tháng này (5/2/1863) có tên Quang do y sai đem tới một văn thơ yêu cầu tôi tường lãm (Nội dung thơ bày tỏ sự phẫn nộ và thất vọng của nhân dân về hòa ước 1862 và tuyên bố: Thà chết chứ không chịu làm tôi tớ cho giặc! Kêu gọi tất cả các quan chức tham gia nghĩa quân và mộ binh khắp các nơi hoặc đóng góp bằng công của vào diệt giặc. Mỗi lần đụng độ với giặc cả hai bên đều có quân chết và bị thương, vì vậy chúng ta không sợ địch - NV). Quân đội thuộc quyền Các hạ mà còn chưa diệt trừ được tên ấy thì lòng kiêu hãnh của y cứ gia tăng. Tôi đã cho bắt giữ tên Quang và giam giữ ngặt để đưa ra xét xử. Tôi xin đính theo mật văn này và bản Tuyên ngôn đã nhận được để Các hạ tri tường”! Và trước lúc biết mình không thể nào sống được, viên đại thần  Nam triều thổ lộ hết tâm can: Ca ngợi “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương”! Ca ngợi Hải quân Trung tướng Bonard với “những võ công hiển hách chinh phục xứ này (!) là người đồng chung một ý tưởng từ lâu (!) về vấn đề lấy xứ Nam kỳ làm thực dân địa”! “Trong 5 năm sau này (1862-1867) những đêm nằm mơ tôi thấy người ấy (tướng Bonard – người ký chấp nhận hàng ước của Phan 1862) đã đến gần tôi” và “rất tiếc là người đã ra đi trước, bây giờ tử thần sẽ cho hai ta gặp mặt trong sự vĩnh cửu, sẽ sung sướng vô biên giới và tình huynh đệ không thể tan rã được”! Ca ngợi Đề đốc Rigault De Genouilly “có tầm nhìn xa biết chiếm lấy Sài Gòn để xây dựng thành trung tâm bền bỉ lâu dài”! Ca ngợi Đề đốc De Lagrandière là người “tạo lập ra thuộc địa Namkỳ”!... Rõ ràng rằng chủ mưu đầu hàng đã thành ý thức chủ đạo trong viên đại thần lá mặt lá trái này. Vậy thì con người ấy khác chi là tay trong của giặc?! Cớ sao người ta bày mọi mưu kế để bốc thơm Phan về lòng trung quân ái quốc?!
Phan có là người liêm chính thật không? Sử liệu ghi sau khi ký hòa ước 1862, dù bị quở trách nhưng nhà vua vẫn sai ông lãnh Thống đốc Vĩnh Long để tiện việc giao lưu với Pháp mong chuộc lại ba tỉnh miền Đông vừa mất. Cũng trong năm này ông Tiến sỹ Phan Hiển Đạo làm Đốc học tỉnh Định Tường có ra hợp tác với giặc vì mơ hồ tin vào “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương” của quan trên. Nhưng sau nhận ra mình lầm lỡ nên lánh qua tỉnh Vĩnh Long (vì Định Tường không còn thuộc Namtriều nữa). Ông đưa thơ xin diện kiến trình rõ sự tình, bị Phan xổ toẹt với lời phê độc: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (Con gái đã bị thất thân, sao cho là trinh được). Ông Tiến sỹ Đạo hổ ngươi trở về quê Mỹ Tho, viết cáo trạng tạ lỗi với dân chúng rồi uống thuốc độc mà chết! Trong khi quan Khâm lược dấu kín nỗi lòng tới lúc lâm chung mới tỏ chân tình với viên quan giặc Ansart rằng ông dành dụm được mấy ngàn quan (1.000 quan lúc bấy giờ tương đương với 700 lạng bạc) và mong muốn ký thác cho các quan Tây đưa mấy đứa cháu lên Sài Gòn học thành tài! Vậy Phan có thanh bần như đời ca tụng?                             Cho đến cái chết của quan Khâm sai đại thần thật ra cũng không bi tráng như nhiều người lầm tưởng. Ông ta biết khi đặt bút ký chấp nhận yêu sách của giặc là xóa sạch đi công lao 300 năm khai phá của các bậc tiên vương tiên chúa thật “đáng tội chết” rồi. Dù nói rằng “lá cờ ba sắc không thể phất phới bay trên một thành lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” (!) nhưng không như Hoàng Diệu treo cổ chết ngay trong thành Hà Nội, Võ Duy Ninh tự thương chết ngay trước thành Gia Định, Nguyễn Tri Phương quyết chết theo Hà thành thất thủ. Trái lại, Phan thủng thẳng ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoại thành Vĩnh Long, tỉnh táo sắp xếp mọi việc chu đáo. Ông gởi một lá sớ lên vua Tự Đức: “Việc cõi Namkỳ một chốc đến thế này, không thể ngăn cản nổi. Nghĩ tội đáng chết, không dám sống cẩu thả để cái nhục lại cho Quân phụ. Đức Hoàng thượng rộng xét xưa nay, biết rõ trị loạn…” và gởi thư cho các tướng giặc để trần tình với lời lẽ rất chi là hoan hỷ. Ông cũng ngỏ lòng với cha Marc là muốn theo đạo Thiên Chúa! Ông căn dặn các con hãy qui phục nước Pháp, sống hòa bình với họ và chăm chỉ cần lao, ráng học hỏi cho bằng người Tây Âu để phò vua giúp nước may ra sau này làm vẻ vang cho Tổ quốc! Nghe ngóng động tĩnh từ triều đình vẫn bặt tin. Biết rằng tội kia không thoát chết! Gần một tháng sau thì ông “tuyệt cốc” (nhịn ăn). Nửa tháng không chết, ông uống á phiện pha với dấm thanh. Trong thời gian ấy nhiều quan lại cả tây và ta đến thăm, cho thuốc ông một mực từ chối. Theo thơ tường trình của Thiếu tá Ansart gởi lên Tổng tham mưu trưởng kể về những giờ cuối đời của ông quan này: “… Lúc các ông quan (Nam triều) còn lại ở Vĩnh Long, ông đã khăng khăng từ chối mọi thứ thuốc men, chúng tôi đã phải gần như ép ông và lợi dụng một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được một chút giải độc. Nhưng ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi và chỉ còn có mình ông với chúng tôi (ba sỹ quan Pháp) thì ông đã thuận mọi điều. Hai lần ông hỏi cha Marc: Tôi có thoát được chăng? Than ôi, khi đó đã quá muộn”! Cái chết nào cũng bi. Chết bình thường thì thương. Chết vì nghĩa thì tráng. Chết có toan tính thì hài!
Bây giờ chẳng lẽ con cháu những người Việt Nam trải hàng trăm năm đấu tranh quyết liệt tổn hao bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập thống nhất non sông đang làm cái việc phục dựng lại con người ấy như tấm gương tiêu biểu của lòng “ái quốc trung quân”!
Ông đạo diễn Thanh Vân nói: “Đây là tác phẩm đầu tiên nói về Phan Thanh Giản nên việc dàn dựng không dễ dàng. Để đảm bảo tính chân thực của lịch sử, các diễn viên trau chuốt kỹ càng về cả trang phục và diễn xuất”. Với nghệ sỹ thì tuồng nào “mùi” là được đưa lên sân khấu. Người diễn nhập vai càng đạt thì càng nổi danh nghệ sỹ, tới mức “siêu” thì nhân vật từ sân khấu nhập với đời thường. Đó là sự kỳ diệu của nghệ thuật. Có điều là từ một nhân vật phản diện được chuyển thành chính diện trước hết là làm hoen ố lòng tự hào dân tộc sau là tác hại tới việc giáo dục lòng yêu nước cho lớp người sau!
Người chịu trách nhiệm chủ yếu ở đây là soạn giả. Không hề có chuyện nhà vua giúi mật chiếu vào tay viên hạ thần được cử đi thương nghị? Để làm sạch mặt Phan Thanh Giản thì ông Phạm Quang Long lại bôi gio trát trấu vào mặt vua Tự Đức. Chẳng những soạn giả đã mang tội xuyên tạc sự thật lại thêm cái tội vu oan giáng họa cho một ông vua vốn đã là tội đồ của lịch sử. Cổ nhân nói: “Ngậm máu phun người miệng mình dơ trước”! Thực ra bi kịch không phải ở phía Phan mà chính là ở phía nhà vua. Tự Đức đã giãi lòng trong thơ: “Khí dân triều trữ cữu – Mại quốc thế gian bình – Sử ngả chung thân điếm – Hà nhan nhập miếu đình” (Bỏ dân ta nhận lỗi – Bán nước thế gian bình – Mai này ta nằm xuống – Mặt nào nhìn tổ tông)! Mà sao đại sự vẫn dựa vào kẻ “mại quốc cầu vinh”? Đấy là mối oan nghiệt của người cầm quyền quốc gia tối thượng khi đã xa dân thì không thể nhận ra kẻ ngay gian, chính tà, sẽ là rước họa cho mình, cho nước!
Trước đây soạn giả Tào Mạt đưa vở “Dương Vân Nga” dựa trên mẫu người có thật là Dương Hậu lên sân khấu rất thành công mà vẫn bị nhận những điều trách cứ phiền hà của dư luận. Tuy nhiên Dương thị chỉ có tội đa tình, ở ngôi đệ nhất phu nhân mà gian dâm là điều chẳng hay nhưng vẫn bảo tồn được sơn hà xã tắc. Tuy vậy mà tượng đá Dương Hậu vẫn phải đứng chầu lẻ loi lạnh lẽo ngoài cung và hàng năm vào ngày húy kỵ các vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành vẫn bị trẻ con người lớn quất đòn doi vào đít vì cái tội chẳng chính chuyên, nếu không thì bằng sự ngoảnh mặt khinh bỉ với những lời phỉ báng của người đời. Trái lại, với Phan Thanh Giản thì chuyện đã qua gần hai thế kỷ rồi. Nước mất thì đã đòi lại được. Nhà tan thì anh em quên đi hờn oán cũ, hợp quần lại cùng nhau xây dựng cơ đồ. Tổ quốc như mẹ hiền rộng lòng tha thứ bao dung. Cứ khui những tỳ vết ra để mà ân oán hơn thua sao không thấy hổ lòng với mẹ! Ông bà ta nói: Làm thầy phải chính tâm mới dạy được người. Làm quan phải nghĩa khí mới che chở được cho dân. Mấy người không có được hai điều ấy thì có gì vinh để tôn lên? Người chết rồi là thoát tục, muốn được siêu thoát. Chỉ người sống mới ham hố ganh đua. Coi chừng càng làm khổ người ta, nằm xuống rồi mà mắt không nhắm được!
Thực ra đây là ý đồ thâm hiểm của một thế lực bất minh, khi không thực hiện được việc dựng tượng viên đại thần ấy lên thì họ thay đổi chiến thuật. Trước mắt là dùng các hình thức văn học nghệ thuật không từ thủ đoạn nào dù là nhỏ nhen quay quắt miễn nhằm tô son trát phấn bốc thơm con người ấy để đánh lạc hướng dư luận, tạo ra những cái gọi là “góc khuất đáng thương” làm cho công chúng từ cảm thương đến có cảm tình mà dễ dãi quên đi những tỳ vết đã hằn sâu trong lịch sử, sau đó họ lấn dần từng bước tiến tới thực hiện bằng được mục đích cuối cùng.
Xuyên tạc lịch sử là mang tội!
Đã là người trí thức chân chính thì dù nói, viết hay làm đều suy nghĩ tới chuyện lớn nước nhà. Vào giữa thế kỷ XIX, lũ giặc mắt xanh mũi lõ vượt trùng dương nửa vòng trái đất trên chục chiếc tàu đồng với mấy ngàn quân qua cái xứ sở nhiệt đới khắc nghiệt này, vũ khí là mấy khẩu đại bác cổ lỗ, vài ngàn tay súng kíp chọi với đội quân nón mê chân đất, gươm giáo dao gậy cầm tay mà có cả rừng người sẵn sàng chết không để nước mất vào tay giặc. Vậy mà có những ông vua, ông quan run rẩy không dám cầm gươm, chỉ biết nhìn trước ngó sau mà đái trong quần thì làm sao không mất nước! Hãy nhìn sức giặc hiện nay: Chỉ một bước chân đã vào tận ngõ. Sân trước vườn sau, trên rừng dưới biển, ba bề bốn bên đâu đâu cũng thấy lũ đầu trâu mặt ngựa. Toàn bộ đất đai, núi rừng, biển đảo của ta đều nằm trong tầm phủ gần xa của đủ các loại vũ khí tối tân. Tàu thuyền đặc biển. Máy bay đầy trời. Điều này hiển nhiên ai cũng biết. Thế mà không ít người nhân danh cái gọi là “đổi mới” thi nhau trổ tài điêu toa quay quắt cố dựng dậy một lũ vua quan hèn nhát, bạc nhược, phản phúc, dối trời lừa dân như Phan Thanh Giản nhằm dạy lớp trẻ điều gì? Trong khi nước non đang cần những con người trung dũng.
Vấn đề là các nhà văn hóa trước hết là các nhà sử học trước trách nhiệm với các thế hệ trẻ nước nhà, đặc biệt đang trong thời điểm cả xã hội bức xúc yêu cầu phải chấn hưng nền giáo dục? Và công luận chờ đợi ý kiến của Ban Tuyên giáo với một hệ thống rộng khắp từ Trung ương đến các địa phương trong việc học tập và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho công cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc Việt Namvăn minh thịnh vượng?

0 comments

Post a Comment

Powered by Blogger.

Archives