Xuyên tạc lịch sử là mang tội  

Posted by Unknown

NGUYỄN VĂN THỊNH

Báo Tuổi Trẻ thông tin: ngày 30/10 vừa qua, sân khấu cải lương Hà Nội ra mắt công chúng vở kịch “Nợ non sông” của soạn giả Phạm Quang Long. Nội dung vở diễn được giới thiệu như sau: “Vì lý do tế nhị nên các nhân vật chỉ được nêu danh tượng trưng như Phan Thượng thư, Hoàng thượng, Hoàng Thái hậu nhưng với người Việt Nam nào yêu sử khi cánh màn nhung vừa mở ra ai cũng biết ngay đó là những nhân vật lịch sử có thật như Thượng thư Phan Thanh Giản, vua Tự Đức, Hoàng Thái hậu Từ Dũ. Cuộc đời viên Thượng thư này gắn liền với câu chuyện lịch sử mất nước nổi tiếng: Năm 1862, Phan Thanh Giản đi sứ và ký vào hòa
Cụ Phan Thanh Giản
ước dâng ba tỉnh Nam kỳ cho người Pháp. “Nợ non sông” khai thác nỗi đau của Phan Thanh Giản trong tấn bi kịch ấy. Vừa đi sứ về, Phan Thanh Giản từ một trọng thần trở thành tội thần. Cả gia đình ông lâm vào cảnh khốn đốn. Mối tình con trẻ tan vỡ. Bọn quan tham thừa cơ chiếm đoạt ngôi vị. Phan Thanh Giản thì sống trong lao tù với nỗi đau đớn vì giờ đây người đời sao có thể hiểu hết được tấm lòng trong sáng luôn tận trung yêu nước thương dân của ông. Bi kịch bao trùm không khí vở diễn. Nhiều khán giả lặng lẽ lau nước mắt trước cảnh Phan gia tan tác, trước nỗi niềm của Phan phu nhân trách chồng: Trước lúc đi sứ ông đã nói rằng nếu công vụ bất thành thì sẽ tử tiết để lưu danh muôn thuở. Vậy sao khi trở về ông lại mang cái tiếng Phan gia mãi quốc?!”. Để rồi ân hận khi được chồng trao cho bản mật chiếu cầu hòa của hoàng thượng thì bà mới vỡ lẽ ra sự thật. Dù phải sống trong tù ngục mà Phan Thượng thư không có một lời nào oán thán giãi bày vậy mà ta thấy được cả tấm lòng trong sáng của bậc tôi trung, hy sinh cả thể diện cá nhân mình để bảo toàn thể diện cho đấng quân vương. Đặc biệt cảnh Hoàng Thái hậu Từ Dũ nghiêm khắc dặn con đừng bạc tình bạc nghĩa với kẻ tôi trung và đau đớn quỳ xuống tạ tội với non sông càng tôn lên giá trị cho Phan Thanh Giản”.
Trong lúc giới thanh niên đang dấy lên phong trào “Cùng thắp lên ngọn lửa yêu sử”, nhắc lại lời dặn của Bác Hồ: “Dân ta phải biết sử ta / Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” thì những ai yêu sử nước nhà không thể không đau lòng và công phẫn trước sự việc bóp méo lịch sử mà ngay cả dưới thời nước Việt Nam còn thuộc Pháp cũng không một cá nhân hay thế lực nào dám công nhiên trắng trợn làm như vậy. Đành rằng nghệ thuật được quyền hư cấu nhưng khi đề cập tới một nhân vật lịch sử cụ thể phải tuyệt đối trung thực với bản chất những việc làm của con người ấy và những sự kiện lịch sử ở thời đại ấy. Tạp chí Hồn Việt số 18 (tháng 12/2008) nhận định: “Phan Thanh Giản thì vẫn thế, vẫn còn đó nguyên vẹn những sự kiện đời ông, quanh ông; nhưng cái nhìn của một số người về ông đã khác. Lòng người thay đổi chứ không phải sự kiện lịch sử hay sử học phải thay đổi”. Chẳng lẽ lòng người thay đổi đến thành đồng lõa với phường bán nước?! Chẳng lẽ đạo đức xã hội xuống cấp tới mức mọi người đều “mắc kê nô” để cho công chúng bị đầu độc bởi những món ăn tinh thần do cái gọi là tự do trong văn hóa nghệ thuật đang táo tợn tác oai tác quái?
Về con người này, những tư liệu lịch sử rất phong phú còn rành rành đây đó, đặc biệt thư tịch nằm trong các kho lưu trữ ở mẫu quốc Pháp còn phong phú hơn trong các thư khố nước bản xứ một thời vong quốc.
Có thể lược sử Phan Thanh Giản như sau: Lúc 30 tuổi ông là người Lục tỉnh Nam kỳ đầu tiên đỗ Tiến sỹ; làm đại quan hơn 40 năm (1826-1867), trải ba triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Ngược tới Gia Long, có thể coi bốn triều vua này là thời kỳ hưng vượng nhất của vương triều Nguyễn - một nhà nước phong kiến tập quyền độc lập, cai quản một quốc gia thống nhất từ Bắc vào Nam trong điều kiện tương đối yên ổn, ngoại trừ những cuộc nổi dậy bởi những sự bất bình của nhân dân mà nhà nước chính thống nào cũng coi là bất chính, như loài giặc cỏ gây rối xã hội. Thế nhưng Phan Thanh Giản lại là người có công đầu với nước Pháp trong việc dối vua lừa dân, tích cực triệt tiêu lực lượng kháng chiến và tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Ngay từ buổi đầu đã đứng về phái chủ hòa dẫn tới chủ hàng. Từ việc lược quyền vua ký hàng ước nhục nhã 1862 để mất ba tỉnh miền Đông đến việc thông đồng với giặc, năm 1867 mở rộng cửa thành Vĩnh Long dâng nốt ba tỉnh miền Tây cho giặc, coi như xóa sạch công lao 300 năm các triều vua chúa Nguyễn mở mang bờ cõi ở phía Nam, đẩy nhanh quá trình xóa quốc danh Việt Nam trên bản đồ thế giới. Cái tội “mại quốc” cả trong sử sách và bia miệng lưu truyền không là quá đáng và không sao xóa được.
Thế nhưng có một thế lực từ sau khi nước nhà được thống nhất và hoàn toàn độc lập cứ âm mưu tái dựng Phan như một tấm gương lớn xả thân vì nước vì dân. Người yêu sử không thể làm ngơ trước một việc làm đổi trắng thay đen lịch sử tác hại tới truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân dân ta như thế. Cần phải làm rõ những việc làm khuất tất của viên quan Thượng thư ấy trong lúc nước nhà nghiêng ngả.
Tháng 8 năm 1963 đã có một hội nghị chuyên đề lớn với sự đồng thuận cao của những nhà cách mạng và văn hóa, học giả lớn như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn, Đào Duy Anh… đánh giá tổng quát: “Để mất nước, các vua nhà Nguyễn là chính phạm, các triều thần trong đó có Phan là đồng phạm. Riêng trong sự kiện hai lần dâng thành giao đất cho giặc để mất cả Nam kỳ thì Phan là chính phạm bởi tính bạc nhược, hèn nhát, thỏa hiệp với giặc. Chủ hòa thực chất là chủ nghĩa đầu hàng - Đó là bản chất của giai cấp phong kiến cầm quyền lúc suy vi”. Thiết nghĩ đó là sự đánh giá rất độ lượng, có thể tình đúng mức do yêu cầu lịch sử lúc đó.
Tuy nhiên tháng 8/2008, trong Hội nghị Sử học tại Thanh Hóa với chủ đề đánh giá về vương triều Nguyễn do các ông Phan Huy Lê và Dương Trung Quốc lèo lái, dưới cái tinh thần gọi là đổi mới, nhiều nhân vật và sự kiện lịch sử được đưa ra bàn luận và có những ý kiến trái hẳn với nhận định trước kia. Dù chưa phải là sự đồng thuận của xã hội, hơn nữa của Nhà nước để được coi như là chính thống, những ý kiến còn mang tính một chiều như thế đã được tức thời phổ biến trên các phương tiện truyền thông, tung hỏa mù coi như lịch sử đã đổi chiều! Người ta lợi dụng câu nói của ông Võ Văn Kiệt: “Mỗi người yêu nước theo cách của mình. Đừng bắt Phan Thanh Giản yêu nước theo cách của Trương Định và ngược lại” mà cố tình không nhắc lại câu nói của nhà cách mạng tiền bối cũng là nhà văn hóa khả kính Phạm Văn Đồng trước đó: “Giá như triều đình lúc bấy giờ không phải ở trong tay bọn vua chúa nhà Nguyễn phản bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, kế tục sự nghiệp yêu nước và anh dũng của Nguyễn Huệ, thì phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều”. Những nhận định trái chiều của hai nhà lãnh đạo quốc gia không phải là vô hại cho văn hóa nước nhà! Số người cơ hội vội cho đúc tượng đồng đại quan Phan đưa lại vào đền thờ các vị thánh sư (!), bày ra giữa sân trường cho con trẻ học (!) và còn mưu dựng tượng quan đứng nghênh ngang trên dải đất mà ông đã dâng hiến cho giặc còn thấm đẫm máu xương các anh hùng nghĩa sỹ và những thế hệ con cháu họ. Có vị viết sách hùng hồn: “Từ giờ trở đi nhân dân Việt Nam khỏi phải mất công tranh cãi nhau dài dòng về tư cách tốt xấu của cụ Phan Thanh Giản nữa”! Có ông nhà văn nói như đinh đóng cột: “Chúng ta đã trả lại đúng giá trị cho Phan Thanh Giản”! Và bây giờ thì người ta đưa Phan lên sân khấu với diện mạo khác hẳn để lợi dụng lòng trắc ẩn của người xem! Hẳn nhiên làm rối loạn nhân tâm và bị dư luận công chính phản đối.
Hầu như cả năm 2009, một số tờ báo, đặc biệt là tuần báo Văn nghệ TP.HCM có nhiều bài viết vạch ra bản chất tiêu cực của triều Nguyễn, trong đó chỉ rõ thực chất phản dân hại nước của con người này. Kết cục là ngày 16/4/2009, Văn phòng Ban Chấp hành TWĐCSVN ra thông báo số 7098-CV/VPTW gửi Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Cán sự Đảng bộ Thông tin và Truyền thông, nêu rõ ràng:
“Ban Bí thư có ý kiến chỉ đạo như sau:
- Việc đánh giá về các chúa Nguyễn và các vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam phải theo các quan điểm trong chính sử (các tài liệu lịch sử chính thức được sử dụng hiện nay); giao Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo Hội Sử học VN, các cơ quan thông tấn, báo chí không trao đổi, tuyên truyền những vấn đề liên quan đến chúa Nguyễn và các vương triều Nguyễn…
- Tỉnh ủy Bến Tre tạm dừng các hoạt động, công trình liên quan đến cụ Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký…”.
Nhà đương cuộc Pháp ở Sài Gòn tiếp sứ bộ Phan Thanh Giản trước khi phái đoàn sang Pháp (1863)
Tưởng rằng trong bộn bề công việc rối ren, người ta dồn tâm sức làm những việc thiết thực ích nước lợi dân mà trái lại càng làm rối thêm sự ổn định cần thiết của xã hội để đạt những mưu đồ đen tối.
Nói về Phan Thanh Giản mà chỉ khai thác góc bi ở giai đoạn đầu ký hòa ước Nhâm Tuất là chưa đủ vì càng về sau bản chất hèn hạ của con người này càng bộc lộ không thể giấu ai nên nhà ái quốc Phan Bội Châu có cơ sở để nói Giản là hạng người “gan dê lợn mà mưu chuột cáo”! Những tình tiết trong kịch bản là hoàn toàn bịa đặt nhằm mục đích duy nhất là bốc thơm viên quan phản trắc. Chỉ sau bốn năm quân Pháp với lực lượng ít ỏi đánh chiếm Trung kỳ không được đành quay vào đánh chiếm mấy thành lũy phía Nam. Giữa lúc bị mắc kẹt ở mặt trận nam Trung Hoa, tư lệnh quân viễn chinh Pháp Bonard dùng kế hoãn binh, cho người ra Huế yêu cầu cử phái đoàn vào Nam hội nghị với yêu cầu bàn chuyện giảng hòa và Nam triều bồi thường chiến phí. Trong tình thế chính triều thối nát, loạn lạc khắp nơi, nhân tâm ly tán lại thêm sự bành trướng của giáo hội Thiên Chúa cùng với đám vua quan triều Nguyễn bạc nhược cầu an mà Tự Đức là ông vua nhu nhược chỉ quẩn quanh với mấy vần thơ phú và chăm lo việc xây lăng tẩm cho mình, ngay từ đầu đã chao đảo nghiêng về phái chủ hòa do Hiệp biện đại học sỹ Lễ bộ thượng thư kiêm quản Hộ bộ sung Quốc sử quán tổng tài, kiêm lãnh Quốc tử giám Phan Thanh Giản cầm đầu. Nên khi quân Pháp yêu cầu nghị hòa thì vua sung cho Phan chức nghị hòa chánh sứ cùng Binh bộ thượng thư Lâm Duy Hiệp làm phó sứ.
Trước khi đi thương nghị, Phan - Lâm được vua Tự Đức ban ngự tửu và tuyên chỉ: “Phàm mọi chi tiết như thù đáp giao ước về việc nghị hòa cần phải cẩn thận. Thêm nữa nên cố gắng đạt đến việc đình chiến, ngõ hầu xứng đáng với nhiệm vụ khanh được giao phó”. Nhà vua gửi gắm cả vận mệnh quốc gia với mệnh đế vương của mình vào tay viên cận thần già tin cẩn: “Đất nước hôm nay đang bị dồn vào ngõ cụt khó khăn. Muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi trung tài năng tận tụy. Có hai điểm cơ bản các khanh cần luôn ghi nhớ: Vấn đề nhường đất và vấn đề hành đạo Cơ đốc giáo. Về hai điểm quan trọng hàng đầu ấy, các khanh đừng nhẹ dạ trong việc ký kết. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang san đang được giao phó vào tay các khanh. Các khanh phải xác định đinh ninh như vậy và dù bất cứ vì lý do nào và bất cứ giá nào cũng đừng đi trệch cái chương trình đã vạch. Các khanh đi! Và cầu cho những lời ước nguyện của Trẫm luôn luôn theo bước các khanh. Cầu mong cho các khanh được sớm trở về đầy vinh quang vì đã bảo vệ danh dự của non sông và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ. Đây là lời cầu chúc duy nhất của Trẫm cho các khanh trước lúc lên đường”!
Một tháng sau, bầy tôi trở về với bản hòa ước trong tay gồm 12 điều khoản, trong đó khoản 3 ghi rõ ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và đảo Côn Lôn được nhượng đứt cho nước Pháp cùng những điều khoản bồi thường bất công rất chi là nhục nhã! Ngay lập tức nhân dân cả nước phẫn nộ kết tội “Phan - Lâm mại quốc” và các phong trào yêu nước tiếp nhau nổi lên chống Pháp đều coi việc làm của Phan như một vết nhơ lịch sử! Người phương Nam đương thời để lại câu ca dao lưu truyền trong dân chúng: “Thà thua xuống láng xuống bưng / Kẻo ra đầu giặc lỗi chung quần thần”. Vua Tự Đức than trời: “Ôi! Con dân mấy triệu, tội gì mà khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”!
Vậy là chính những người đương thời từ triều đình tới thần dân đều đã công khai kết tội Phan - Lâm bán nước! Chẳng thể gọi là bị ép oan để bày chuyện chiêu tuyết cho con người ấy.
Trước sự đã rồi, vua và triều thần đành vớt vát bằng việc giao cho Phan cai quản Vĩnh Long và Lâm cai quản Khánh Thuận ở hai đầu giáp ranh ba tỉnh miền Đông để có điều kiện giao tiếp với người Pháp ở Gia Định, ngõ hầu bắc mối giao lưu thân thiện Đông - Tây, tiến tới có thể chuộc được lỗi lầm. Quan đô hộ thuộc quốc trở về chính quốc. Phan lại được vua giao làm Chánh sứ qua Y-pha-nho và Pháp xin chuộc lại những gì đã mất với lời ủy thác: “Đất ba tỉnh này là xương máu của dân, chuộc lại là chuộc tội cho ta để cho dân thỏa lòng nguyện vọng”. Phan hứa mập mờ: “Nếu có thể đem đổi ngói lấy vàng thì lúc nào thần cũng sẵn sàng”! Sau nửa năm lênh đênh trên biển, chầu chực Pháp hoàng Napoléon III, dâng nhiều cống vật mà vẫn trở về trắng tay và bộc lộ ra tâm địa của viên quan bạc nhược trước sức mạnh của quân cướp nước: “Sự giàu có, mạnh mẽ và các việc khôn khéo của nước Pháp nói ra không hết”! Thì ra với Phan Thanh Giản “ngói” đây là mảnh đất ba trăm năm nhân dân ta cùng tiền triều nhà Nguyễn đổ bao mồ hôi xương máu dày công khai phá và “vàng” đây là sự yên ổn để vua tôi ngồi yên ghế vị mặc cho dân chúng lâm vào cảnh nô lệ điêu linh! Vì việc thương lượng với Pháp xin hồi lại đất không thành Phan Thanh Giản mới bị vua Tự Đức phạt tội “cách lưu”! Tuy nhiên Phan không tỏ ra ăn năn chuộc lỗi tìm cách gỡ ra thế bí, trái lại rất tích cực hỗ trợ cho quân chiếm đóng mau chóng bình định mảnh đất phương Nam bằng những việc làm mà anh linh tổ tiên không thể dung tha như thẳng tay đàn áp và khống chế những thủ lĩnh nghĩa quân bất phục tùng thi hành hiệp ước mà anh linh tiên tổ không thể dung tha! Ông ta một mặt chỉ điểm cho giặc về những người yêu nước, một mặt dâng sớ về triều xin trị tội, thuyên chuyển khỏi nơi cứ địa hoặc cách chức những chủ soái nghĩa quân như Trần Văn Thành, Trịnh Quang Nghị, Võ Di Nguy, Trương Định… Người Pháp dự đoán dưới sức ép của phe chủ chiến, có khả năng Phan sẽ đào tẩu chạy về Sài Gòn tị nạn!
Năm 1865, trong khi đối phương “sắp đặt trước rất chu đáo” mà quan Tổng đốc Vĩnh Long đã mật tâu với triều đình về tình hình nguy ngập ở ba tỉnh miền Tây và xin cử một người có đủ “uy tín” với Pháp để trấn thủ nơi đây. Vua Tự Đức phục chức cho Phan Thanh Giản và sung Kinh lược sứ trấn ba tỉnh miền Tây với lời căn dặn “không khuất phục tình hình một cách thụ động”. Suốt mấy năm được giao trấn thủ tiền phòng trong tình thế thịt treo trước miệng hổ vuốt mèo mà Phan chểnh mảng việc quân ngoài một việc tích cực hợp tác với giặc đàn áp chế ngự phong trào kháng Pháp. Phan đã bắn tin cho giặc: “Bản chức sẽ không ngăn cản sự xâm lược bằng một sự kháng cự mà chúng tôi hiểu là vô ích” và nói hoạch toẹt ra: “Nếu quý quốc lấn tới, quả nhân không chống cự”! Đến khi thấy đoàn tầu thuyền nhà binh Pháp đậu kín trước thành Vĩnh Long “là một thành khá kiên cố, địa thế rất dễ phòng thủ” và tướng giặc cho người mang thơ nói toạc ra ý họ “quyết định chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ vì lý do các quan quân triều đình ở đây ủng hộ phong trào chống Pháp”, Phan ra lệnh không kháng cự và dẫn đám thuộc hạ xuống tầu trách yêu giặc “vin cớ nhỏ mọn mà làm tổn thương đại nghĩa” (!) và ngọt nhạt đẩy đưa: “Tôi có quyền giữ đất chớ không có quyền giao đất. Xin cho tôi hỏi lại ý kiến triều đình”! Ông Tiến sỹ đầy bụng chữ thánh hiền hẳn biết rõ trong binh thư tướng ngoài biên ải được quyền “tiền trảm hậu tấu” đó sao? Và khi thầy trò trở lên bờ thì lũ sài lang kia thừa dịp kéo vào chiếm thành mà không tốn một viên đạn! Thế mà tin phao lên quan Kinh lược sứ bị giặc lừa cũng lọt được vào tai người nghe mới lạ! Sau đó quan Khâm sai viết công thư - thực chất là thư dụ hàng như ông đã từng làm mấy lần bất thành với Trương Định, gửi các quan tướng giữ thành An Giang và Hà Tiên với lời lẽ không tìm thấy ở đâu trong lịch sử: “… Người nào thuận theo lòng trời thì còn, người nào nghịch theo lòng trời thì chết mất. Trời đã cho con người có lý trí. Con người phải sống tùy theo ý chí ấy. Chúng ta yếu ớt không thể chống nổi người Phú-lang-sa, tướng soái lính tráng đều bị đánh bại. Người Phú-lang-sa muốn đến đâu cũng đặng. Không người nào có thể chống lại. Mình còn ngốc khi mình đánh người Phú-lang-sa bằng vũ khí, cũng như con nai muốn bắt con cọp. Các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo gươm và giao thành trì khỏi chống lại”! Ông ta biện lẽ: “Bản chức tùy theo thiên ý mà tránh đỡ giùm dân đen tai họa rớt trên đầu họ” và khuyên dụ dân hãy tin vào giặc vì “những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi”! Đó là sự dối trời lừa dân có một không hai. Thế là chỉ trong 5 ngày cả ba tỉnh thành hừng hực khí thế chống ngoại xâm bỗng lọt vào tay giặc. Viên Đại tá Thomazi hoan hỷ viết trong nhật ký: “Đến tháng 6/1867, binh lính ta đi chơi một bữa thế là xong hết cuộc chinh phục toàn xứ Nam kỳ, công cuộc khó nhọc bắt đầu từ năm 1858”. Có thật là viên quan già lọc lõi này bị lừa chăng? Để tránh họa binh đao chết chóc lại đẩy dân đen con đỏ xuống hầm tai họa thì làm sao sống được? Khi giặc đã hoàn toàn bội ước thì sao quan Khâm lược chẳng những đã dễ dãi giao thành lại ngoan ngoãn lệnh cho thuộc hạ mở rộng cửa kho và ngân khố lấy lúa gạo và tiền nộp thêm cho quân phản phúc gọi là thanh toán bồi thường 5 năm chiến phí theo cái gọi là hòa ước 1862! Người học chữ thánh hiền nào chẳng biết lời dạy của Thánh nho: “Chữ tín mà bị ép thì không cần giữ”!

0 comments

Post a Comment

Powered by Blogger.

Archives