Sự hồi sinh của một “thư viện cổ”  

Posted by Unknown

Nhà văn VŨ HẠNH
Sách cổ bằng chì
Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long và miền Tây sông Hậu trong thiên niên kỷ I của Công nguyên là lãnh địa đã từng góp phần làm lan tỏa ánh sáng văn hóa nghệ thuật phương Đông cổ đại. Căn cứ theo 18 dòng minh văn được khắc trên bia đá vào năm 611 Công lịch tại chùa Vắt Chrey nằm bên hữu ngạn sông Angkor Borey, chúng ta được biết chỉ riêng trong lĩnh vực âm nhạc, ở ngôi cổ tự này đã có tới 7 vũ nữ, 11 nữ ca công, 4 nữ nhạc công chuyên sử dụng các loại đàn dây để đáp ứng cho nhu cầu sinh hoạt cộng đồng về văn hóa và tâm linh quần chúng.
Điều mà xưa nay đã được không ít người đặc biệt quan tâm, là việc nghiên cứu về các loại cổ tự, minh văn tại vùng đất này. Chính ở tại nơi đây, trải qua một phổ hệ gồm 13 đời vua kéo dài hơn 600 năm của vương quốc cổ Phù Nam đã không ngừng du nhập, truyền bá tư tưởng Phật giáo và đạo Bà La Môn.
Sách cổ trên da thú
Về vấn đề này, cổ sử đã từng cung cấp cho chúng ta nhiều sử liệu quý. Sử nhà Tấn (thế kỷ thứ III - V) ghi rõ: Nước Phù Nam “có sách vở”, “có nhà lưu giữ sách vở, tài liệu”. Thời nhà Lương (thế kỷ thứ VI), sử cũng đã chép: Vua Phù Nam “có khả năng viết sách nước Thiên Trúc, sách có 3.000 lời nói về nguyên do kiếp trước kiếp sau của vua cũng tương tự như kinh Phật và luận về việc Thiện”. Không còn nghi ngờ gì nữa, hơn 1.500 năm trước đây tại vùng đồng bằng sông Cửu Long và miền Tây sông Hậu, chẳng những đã có sách mà còn có nhà lưu giữ sách - tức là “thư viện”. Minh văn thuở ấy, đã được người xưa xác nhận là một thứ “văn tự giống như chữ người Hồ”.
Việc quốc vương viết sách, việc trong nước có nhà lưu giữ sách vở, tài liệu cũng như việc vua Phù Nam theo lời mời đã phái những vị cao tăng mang 240 pho kinh Phật sang đất nước Trung Hoa để dịch thuật trong thế kỷ thứ VI. Đây là nguồn sử liệu rất quan trọng gợi mở cho chúng ta trong việc khám phá ra nhiều lĩnh vực nghiên cứu chuyên đề về văn minh văn học, về việc chế tác các loại vật liệu để tạo ra ấn phẩm, về nghiệp vụ ấn hành và lưu giữ sách…
Trong thời gian gần đây, khi đến thăm gia đình nhà nghiên cứu Trần Hữu Phước - nguyên Giám đốc cơ quan đại diện Bộ Văn hóa - Thông tin tại thành phố Hồ Chí Minh, tôi rất vui mừng được trông thấy những di tích văn vật quan trọng. Theo tôi, đây là hình ảnh của “thư viện cổ” mà sử cũ đã chép. Nhiều loại sách xưa được bà con nông dân phát hiện trong lòng đất giữa lúc đang canh tác, hoặc được các vị đại đức cao tăng nối tiếp nhau bảo tồn trải qua nhiều thế hệ dưới mái đền chùa.
 Nguồn cổ vật nhiều và đa dạng, gồm có sách da, sách chì, bản đồ, văn tự Hy Lạp cổ được in trên đất nung, những câu kim ngôn của Đức Phật Thích Ca thuyết pháp được khắc trên bản đồ cổ…
Theo số liệu đã được phân loại, bộ sưu tập sách cổ viết trên da thú gồm 26 cuốn với tổng số 263 trang, trong đó có 9.672 cổ tự và 230 bức tranh minh họa. Khổ sách nhỏ nhất là 17,5cm x 12,5cm. Khổ sách to nhất là 31,5cm x 25cm. Sách ít trang nhất, 8 trang; sách nhiều trang nhất, 13 trang.
Bộ sưu tập sách cổ viết trên chì gồm 35 cuốn với 14.700 minh văn và 21 bức tranh minh họa. Ngoài ra, còn có một khối lượng minh văn không nhỏ viết trên những mảnh chì được ép mỏng theo nhiều kích cỡ và được tạo dáng khác nhau. Theo Tiến sĩ Thái Văn Chải “ta có thể gọi nó là loại chữ sách chì”. Những mảnh chì này có độ dài từ 23mm đến 230mm. Trong đó, có 5 loại được tạo dáng thành hình con chim và 2 loại được tạo dáng gần giống như sách cổ Trung Quốc được viết trên những thẻ tre.
Bản đồ cổ và tranh cổ khắc trên da thú
Thêm một điều đáng lưu ý là không ít mảnh chì khắc minh văn được soi lỗ trên đầu để xỏ dây kết nối, giống như kinh Phật được viết trên lá cây thốt nốt của người Chân Lạp, Khmer… Cũng không thể không nói đến những mảnh chì được chế tác theo kiểu cặp đôi mỏng và dẻo giống như hai trang sách kết dính với nhau trông rất ngoạn mục.
Có một hiện tượng trùng hợp, có sự tương đồng rất lý thú cả trong sự nhận xét về tự dạng cũng như nội dung của “thư viện cổ” này. Nếu như sử thời nhà Lương chép minh văn “giống như chữ người Hồ”, còn nội dung sách là “luận về việc Thiện”, “tương tự như kinh Phật”. Giờ đây, qua sự khảo cứu bước đầu, Tiến sĩ Thái Văn Chải nhận xét: đó là loại chữ Brahmi tối cổ của Ấn Độ, viết theo lối cách điệu hóa, lại còn được viết đan xen với một số cổ ngữ địa phương thuộc vùng Nam Ấn nên rất khó đọc và khó dịch. Xem 251 bức tranh minh họa được khắc ngoài bìa và bên trong sách, chúng ta nhận biết phần lớn là Đức Phật và các vị chủ thần của đạo Hin-đu. Do vậy có thể đoán được đây là các loại kinh sách đã được người xưa bảo tồn ở đồng bằng sông Cửu Long và vùng Tây sông Hậu trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử.
Theo tài liệu công bố của nhà khảo cổ học nổi tiếng người Pháp - L. Malleret, các quốc vương Phù Nam đã để lại cho hậu thế 3 bia ký chữ Phạn có nội dung liên quan đến lịch sử Vương quốc Phù Nam. Chúng ta được biết những tấm bia cổ quý như vàng ngọc ấy được khắc trong hơn 60 dòng minh văn với chừng vài mươi khổ thơ Sanskrit. Để giới thiệu thêm ý nghĩa bài viết này, tôi xin được nói kỹ hơn, trong “thư viện cổ” của gia đình ông Trần Hữu Phước hiện nay có tới 61 cuốn sách cổ bằng da, bằng chì với dung lượng khoảng 24.372 minh văn, 5 tấm bản đồ cổ khắc trên da thú, khoảng 20 bức tranh cổ có minh văn về đề tài tôn giáo được khắc trên chì và trên da… Theo tôi, đây là nguồn cổ vật rất quý giá, cần được sự huy động năng lực tổng hợp và sự liên kết đồng bộ của các cơ quan nghiên cứu khoa học chuyên ngành để tận khả năng khai thác nguồn tài phú về tinh thần của người xưa để lại. Trong thời gian qua, chúng tôi rất hoan nghênh Tiến sĩ Thái Văn Chải đã bước đầu giới thiệu vấn đề này trên báo chí (như tạp chí Hồn Việt, tạp chí Phật giáo nguyên thủy…). Tiến sĩ Thái Văn Chải còn chuyển cho Tổng lãnh sự quán Ấn Độ tại TP.HCM một số minh văn nhằm được sự hỗ trợ của các học giả Ấn Độ trong lĩnh vực dịch thuật.
Để đánh dấu 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước Ấn Độ và Việt Nam vào năm ngoái - 2012, Ấn Độ hiện đang tiếp tục xúc tiến thành lập Trung tâm Văn hóa Ấn Độ tại Việt Nam nhằm thúc đẩy hơn nữa các hoạt động trao đổi văn hóa song phương. Cách đây mấy tuần, Tổng lãnh sự quán Ấn Độ tại TP.HCM còn phối hợp với trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM tổ chức cuộc hội thảo khoa học quốc tế “Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong tiếp biến văn hóa ở Việt Nam và Đông Nam Á”. Cuộc hội thảo này đã quy tụ được nhiều nhà khoa học Việt Nam và Ấn Độ.

Tôi tin rằng, việc khai thác “thư viện cổ” của gia đình ông Trần Hữu Phước chẳng những đáp ứng cho nhu cầu của công tác nghiên cứu khoa học, mà còn góp phần rất có ý nghĩa vào việc tăng cường mối tình hữu nghị truyền thống tốt đẹp đã được xây dựng và phát triển lâu bền trong lịch sử giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Ấn Độ anh em.  

0 comments

Post a Comment

Powered by Blogger.

Archives